“Theo các nghiên cứu trên thế giới, đối với mũi tiêm 3, 4 của vắc xin COVID-19 có phản ứng phụ ở giữa mức phản ứng của mũi 1-2.
Ví dụ vắc xin Pfizer tiêm mũi 2 sẽ có phản ứng nặng hơn mũi 1 và mũi 3, 4 ít phản ứng hơn mũi 2″.
Các vị khách mời tham dự tọa đàm (từ trái sang): TS Socorro Escalante, quyền trưởng đại diện WHO tại Việt Nam; PGS.TS Trần Minh Điển, giám đốc Bệnh viện Nhi trung ương; GS.TS Phan Trọng Lân, cục trưởng Cục Y tế dự phòng (Bộ Y tế) và TS Nguyễn Sĩ Dũng – Ảnh: VGP
Đây là chia sẻ của GS.TS Phan Trọng Lân, cục trưởng Cục Y tế dự phòng (Bộ Y tế), tại tọa đàm “Tại sao phải tiêm mũi 3, mũi 4 phòng COVID-19 trong bối cảnh hiện nay?” do Cổng thông tin điện tử Chính phủ tổ chức sáng 1-7.
Tọa đàm có sự tham gia của GS.TS Phan Trọng Lân, PGS.TS Trần Minh Điển – giám đốc Bệnh viện Nhi trung ương và TS Socorro Escalante – quyền trưởng đại diện WHO tại Việt Nam.
Vắc xin mũi 3, 4 có phản ứng phụ mạnh hơn?
Hiện nhiều người dân lo ngại về việc tiêm mũi vắc xin bổ sung lần 2 (mũi 3, 4) sẽ có phản ứng phụ mạnh hơn.
Thông tin về vấn đề này, ông Lân cho rằng mỗi cơ thể sẽ có phản ứng với vắc xin ở mức độ khác nhau.
“Nhiều người cho rằng sau khi tiêm mũi 3, mũi 4 sẽ có phản ứng phụ mạnh hơn, mệt mỏi hơn. Tuy nhiên, theo các nghiên cứu trên thế giới đối với mũi tiêm 3, 4 vắc xin COVID-19 sẽ ở giữa mức phản ứng của mũi 1-2. Ví dụ: vắc xin Pfizer tiêm mũi 2 sẽ có phản ứng nặng hơn mũi 1, và mũi 3, 4 ít phản ứng hơn mũi 2″, ông Lân thông tin.
Bên cạnh đó, đại diện Cục Y tế dự phòng cũng cho rằng nhiều người có tâm lý lo lắng hoặc do tác động của cuộc sống, trùng hợp với thời điểm tiêm chủng nên có sự nhầm lẫn mệt mỏi, sức khỏe suy giảm do sau khi tiêm vắc xin phòng COVID-19.
Cũng theo ông Lân, vắc xin là thành tựu của y học, trước khi tiêm đã nghiên cứu thí nghiệm, thậm chí khi đã tiêm vẫn được tiếp tục nghiên cứu dưới sự giám sát từ người dân, các cơ quan y tế.
“Nếu có bất kỳ biến chứng có ảnh hưởng đến sức khỏe sẽ ngừng ngay việc tiêm chủng. Đến nay, trên thế giới và WHO vẫn đang duy trì tiêm chủng vắc xin COVID-19, vì vậy người dân hoàn toàn có thể yên tâm tiêm chủng”, ông Lân nói.
Vắc xin gần hết hạn có còn hiệu quả không?
Theo ông Lân, theo nghiên cứu của các hãng sản xuất vắc xin, hạn sử dụng vắc xin là 9 tháng. Nghiên cứu cũng cho rằng vắc xin có hiệu quả tốt nhất là sử dụng trong 9 tháng kể từ ngày sản xuất.
“Điều này không có nghĩa là chúng ta tiêm sớm trước hạn sử dụng 3-4 tháng là tốt. Mà trong khoảng thời gian 9 tháng này, vắc xin có hiệu quả như nhau. Vì vậy, trong quá trình phân bổ vắc xin chúng ta đã sử dụng hiệu quả các vắc xin gần hết hạn sử dụng.
Bên cạnh đó, trong quá trình tiêm chủng, phụ huynh và người dân được kiểm tra hạn sử dụng của vắc xin. Việc công khai này đảm bảo người dân được sử dụng vắc xin an toàn, hiệu quả”, ông Lân cho hay.
Theo TS Socorro Escalante, quyền trưởng đại diện WHO tại Việt Nam, trong hoàn cảnh COVID-19 diễn ra trên toàn thế giới hiện nay, việc cung cấp vắc xin còn nhiều hạn chế.
“Vì vậy chúng ta cần ưu tiên cho đối tượng ưu tiên như những người suy giảm miễn dịch. Chúng ta rất may mắn đã có được vắc xin, vì vậy cần phải sử dụng hiệu quả vắc xin này, nó có thể phòng bệnh nặng, giảm áp lực cho ngành y tế”, đại diện WHO nhấn mạnh.
45% ca nhiễm COVID-19 tại Singapore liên quan đến biến chủng mới
PGS.TS Trần Minh Điển, giám đốc Bệnh viện Nhi trung ương, cho biết theo thống kê mới nhất, có đến 45% ca nhiễm COVID-19 mới trong cộng đồng tại Singapore liên quan đến biến chủng BA.4 và BA.5
“Biến chủng mới BA.4, BA.5 được nghiên cứu có khả năng lây lan nhanh hơn biến chủng cũ của Omicron. Mặc dù chưa có nghiên cứu về việc độc lực có mạnh hơn hay không nhưng chúng ta cần theo dõi.
Hiện tỉ lệ t.rẻ e.m chiếm 25-27% dân số, theo thông báo của Cục Y tế dự phòng, tỉ lệ trẻ mắc COVID-19 tương đương với người lớn, có khoảng 25-27% trẻ mắc bệnh.
Đỉnh dịch vào tháng 3, đến nay đã là tháng 7, như vậy đã đủ thời gian tiêm. Đặc biệt, trong mùa hè chúng ta đi du lịch, giao thương nhiều, t.rẻ e.m có nguy cơ mắc COVID-19 là rất lớn. Chúng ta cần tiêm vắc xin để tạo miễn dịch cho gia đình, bảo vệ cho cộng đồng”, ông Điển nhấn mạnh.
Chỉ đạo khẩn bảo vệ nhóm yếu thế trước dịch Covid-19
Bộ Y tế vừa có văn bản khẩn gửi các địa phương hướng dẫn quản lý, bảo vệ người thuộc nhóm nguy cơ mắc Covid-19.
Đây là nhóm có nguy cơ lây nhiễm cao với mức độ bệnh tăng nặng và t.ử v.ong cao khi mắc.
Hiện nay, tình hình dịch Covid-19 vẫn đang diễn biến phức tạp tại nhiều quốc gia trên thế giới với các biến thể mới được ghi nhận có khả năng lây lan nhanh và gây nguy hiểm như Delta (B.1.617), Omicron (B.1.1.529). Trong đó, nhóm có nguy cơ lây nhiễm cao với mức độ bệnh tăng nặng và t.ử v.ong cao khi mắc Covid- 19 là nhóm người trên 50 t.uổi, người có bệnh nền, người chưa được tiêm chủng hoặc chưa tiêm chủng đầy đủ.
Theo Bộ Y tế, việc quản lý, theo dõi sức khỏe, giám sát phát hiện sớm để điều trị kịp thời, hạn chế thấp nhất nguy cơ t.ử v.ong là rất cấp thiết, nhất là trong bối cảnh cả nước đang thực hiện thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19. Vì thế, Bộ xây dựng hướng dẫn quản lý, bảo vệ người thuộc nhóm nguy cơ mắc Covid- 19.
Ảnh minh họa.
Bộ Y tế đề nghị UBND các tỉnh, thành chỉ đạo Sở Y tế và các Sở, ngành liên quan hướng dẫn, phối hợp với các địa phương để triển khai thực hiện hướng và thực hiện báo cáo kết quả thực hiện theo yêu cầu.
Các nội dung ưu tiên cần thực hiện gồm: quản lý người thuộc nhóm nguy cơ; truyền thông, tư vấn về phòng chống Covid-19; tiêm chủng vaccine phòng Covid-19; xét nghiệm tầm soát phát hiện người mắc Covid-19; chăm sóc và điều trị người bệnh; bảo vệ người thuộc nhóm nguy cơ khi người sống chung, người cùng gia đình bị mắc Covid-19; hỗ trợ chăm sóc thể chất và tâm lý xã hội.
Bộ cũng đề nghị địa phương bố trí ngân sách, huy động các Ban, ngành, đoàn thể, tổ chức chính trị, chính trị xã hội tham gia triển khai thực hiện và kiểm tra, giám sát việc thực hiện hướng dẫn.
Cụ thể:
Người thuộc nhóm nguy cơ bao gồm:
– Người có bệnh nền có nguy cơ cao.
– Người trên 50 t.uổi.
– Phụ nữ có thai.
– Người người chưa tiêm đủ vaccine phòng Covid-19 ở người trên 18 t.uổi.
Các xã, phường, thị trấn thực hiện quản lý nhóm nguy cơ cao trên địa bàn như lập danh sách, xác định các yếu tố bệnh nền, sức khỏe chung, theo dõi sức khỏe…
Về việc tiêm vaccine, các địa phương cần rà soát người thuộc nhóm nguy cơ, tổ chức tiêm vaccine phòng Covid-19 đảm bảo không bỏ sót người thuộc nhóm nguy cơ, tổ chức tiêm lưu động đến tiêm tại nhà cho những người không di chuyển được. Đồng thời, chú ý tiêm mũi bổ sung, nhắc lại cho người đã tiêm đủ liều. Ngoài ra, cũng cần tiêm vaccine đầy đủ cho người sống chung, người cùng gia đình.
Về việc xét nghiệm, các xã, phường, thị trấn trên cơ sở đ.ánh giá cấp độ dịch của từng địa bàn thực hiện xét nghiệm SARS-CoV-2 cho người thuộc nhóm nguy cơ và người sống chung, người cùng gia đình. Trong đó, chủ động xét nghiệm các trường hợp có một trong các biểu hiện triệu chứng sốt, ho, mệt mỏi, đau họng, mất vị giác và khứu giác, khó thở… Tần suất xét nghiệm thực hiện trên cơ sở cấp độ dịch để đảm bảo việc tầm soát, phát hiện sớm và điều trị kịp thời.
Bên cạnh đó, khuyến khích, hướng dẫn người dân thuộc nhóm nguy cơ tự làm xét nghiệm nhanh, khai báo kết quả cho trạm Y tế xã, phường, thị trấn để được hướng dẫn theo dõi, điều trị kịp thời, đúng quy định.